Phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam

 

Chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và nước ngoài để phát triển văn hóa.

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc diễn ra sáng 24/11 tại Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng bày tỏ sự vui mừng khi đến dự hội nghị có ý nghĩa trên nhiều phương diện.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: "Việt Nam là một đất nước có hơn 4.000 năm lịch sử, trải qua không biết bao nhiêu sự biến đổi, thăng trầm do thiên nhiên và con người gây ra, đã tích lũy, tạo ra và phát huy được nhiều giá trị, bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, làm nên hồn cốt của dân tộc; đồng thời tiếp thu và góp phần đóng góp vào nền văn hóa chung của nhân loại".

Nhận thức sâu sắc được vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của đất nước ta, dân tộc ta, cho nên ngay từ trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng năm 1930, Đảng ta đã đề cập đến vấn đề phải phát triển văn hoá của dân tộc. Năm 1943, khi nước nhà còn chưa giành được độc lập, Đảng ta đã đề ra "Đề cương văn hoá Việt Nam”. Trong đó, chỉ rõ "Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hoá)" và chủ trương phát triển văn hoá theo ba hướng: Dân tộc - Khoa học - Đại chúng.

Xây dựng con người có nhân cách và môi trường văn hóa lành mạnh -0
Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu quan trọng chỉ đạo hội nghị.

 “Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng vai trò của văn hoá và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hoá trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nhận thức của Đảng về văn hoá ngày càng toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn…” - Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định.

Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Nói sâu sắc, ngắn gọn như Bác Hồ là: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi"…

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, con người là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí của phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ, văn minh.

Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và trong hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên.

“Chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng; nhấn mạnh đến phát huy tối đa các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, từ trong nước và nước ngoài để phát triển văn hóa. Như vậy, nhận thức của Đảng ta về xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới đã từng bước được bổ sung, phát triển và ngày càng hoàn thiện, toàn diện và sâu sắc hơn. Đây là tiền đề rất cơ bản để chúng ta quán triệt và tổ chức triển khai thực hiện trong thực tế…”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh.

Xây dựng con người có nhân cách và môi trường văn hóa lành mạnh -0
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại hội nghị.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Tổng Bí thư cũng yêu cầu cần nhìn thẳng vào những hạn chế, tồn tại, bất cập, yếu kém trên lĩnh vực văn hoá, tìm ra nguyên nhân và giải pháp để khắc phục.

Trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là "nền tảng tinh thần", "động lực phát triển", và "soi đường cho quốc dân đi"; phát huy giá trị văn hoá và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành Quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh một trong những quan điểm chỉ đạo cốt lõi và xuyên suốt là: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nền văn hoá và con người Việt Nam... kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất".

Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hoá của dân tộc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hoá, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.

Xây dựng con người có nhân cách và môi trường văn hóa lành mạnh -0
Các đại biểu dự hội nghị.

Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hoá, giá trị của quốc gia-dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.

Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống văn hoá. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả sáng tạo các giá trị văn hoá mới. Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hoá, phản văn hoá; bảo vệ những giá trị chân - thiện - mỹ.

Nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; xây dựng đời sống văn hoá vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hoá giữa các vùng, miền của đất nước. 

Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hoá là nhân dân; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hoá, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền; phát triển các phong trào văn hoá sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân, bảo đảm sự công bằng, văn minh. Đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hoá.

Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hoá, về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị của nước ta thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam.

Xây dựng văn hoá trong lãnh đạo, quản lý; phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu theo tư tưởng, đạo đức, phong cách văn hoá của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng; hiệu quả quản lý của Nhà nước; sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong sự nghiệp phát triển văn hoá. 

Xây dựng môi trường văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hoá thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hoá lành mạnh.

Tác giả: Linh - Trường

Nguồn: Bán Công an nhân dân Online

Quan điểm, đường lối quan trọng về văn hóa

Văn hóa được xem là một trong những trụ cột quan trọng và được đặt ngang hàng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng. Điều này thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa và là sự tiếp nối, kế thừa những quan điểm, chủ trương, đường lối về văn hóa của Đảng qua các giai đoạn cách mạng và các kỳ Đại hội.

Trong Đề cương văn hóa Việt Nam-1943, Đảng ta đã xác định văn hóa là một mặt trận quan trọng “là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa)”; Kết luận Hội nghị Trung ương mười (khóa IX) xác định “Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ “phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt” với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội”; Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X xác định “bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội”; Hội nghị lần thứ IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đề ra 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó có quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”; Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng cũng xác định “phát triển kinh tế- xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; đảm bảo quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”; Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, xác định gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, “trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”

Sớm quan tâm đến xây dựng văn hóa

Ngay từ năm 1943, tức 2 năm trước khi giành được độc lập, ĐCS Đông Dương đã quan tâm đến vấn đề văn hóa. Để chống lại chính sách văn hóa phản động của phát xít Pháp - Nhật và tay sai, Đảng ta đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt NamĐề cương văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua trong Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên).

Bản “Đề cương Văn hóa Việt Nam” do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo năm 1943. (Ảnh: baotanglichsu.vn)

Trong bản đề cương này, ĐCS Đông Dương xác định phạm vi văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. ĐCS Đông Dương chính thức thông qua Đề Cương hoá Việt Nam bày tỏ thái độ của mình đối với vấn đề văn hóa và khẳng định mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị, văn hóa. Những người cộng sản Việt Nam không chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa…

Đề cương văn hóa khẳng định “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”. Đề cương cũng chỉ ra rằng cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công (cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị). Sau khi Đảng Công bố bản đề cương này, cùng năm, Hội Văn hóa Cứu quốc ra đời Như vậy, Đề cương văn hoá Việt Nam là văn kiện chính thức đầu tiên của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ. Điều này khẳng định rằng ĐCS Việt Nam đã sớm quan tâm đến công tác văn hóa, văn nghệ.

Đường lối văn hóa, văn nghệ phục vụ kháng chiến và thống nhất Tổ quốc

Ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Sáng ngày 03/9, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của chính phủ mới, trong đó có 2 nhiệm vụ cấp bách liên quan đến văn hóa, đó là diệt giặc dốt và mở lại một chiến dịch giáo dục nhân dân. Người: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sau chế độ thực dân đã hủ hóa dân tộc Việt Nam bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Vì vậy, một nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân: “Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”.

Ngày 03/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 44 thành lập “Ban Trung ương vận động Đời sống mới” với nhiều nhân vật, nhà văn hóa uy tín như Trần Huy Liệu, Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hoè, Nguyễn Tấn Gi Trọng v.v…. Tháng 3/1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tài liệu Đời sống mới để giải thích những vấn đề, chủ trương cũng như các biện pháp xây dựng một đời sống mới văn hóa. Tháng 7/1948, tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho hội nghị, trong thư có đoạn: “Trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc vĩ đại của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng (…) Chúng ta cần phải xây dựng một nền văn hóa kháng chiến kiến quốc của toàn dân”. Người cũng nêu nhiệm vụ cụ thể của văn hóa là “chẳng những để cổ động tinh thần và lực lượng kháng chiến kiến quốc của dân, mà cũng phải nêu rõ những thành tích kháng chiến kiến quốc vĩ đại của ta cho thế giới. Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những  để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”.

Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) xác định chủ trương tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa đồng thời với cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng về khoa học, kĩ thuật, là chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, con người mới. Đại hội IV và Đại hội V của Đảng tiếp tục kế thừa, thực hiện đường lối phát triển văn hóa mà Đại hội III của Đảng đã đề ra. Nhiệm vụ quan trọng của Văn hóa trong giai đoạn này được xác định là tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước, phát triển khoa học, văn hóa nghệ thuật, giáo dục trong cả nước…

Đường lối văn hóa trong đổi mới đất nước

Đại hội VI của Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có văn hóa. Ngày 28/11/1978, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW “Về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”. Đây có thể xem là nghị quyết chuyên đề đầu tiên về văn hóa trong giai đoạn đất nước đổi mới. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa…”. Nghị quyết cũng khẳng định tự do sáng tác là điều kiện tiên quyết để có các tác phẩm giá trị đích thực: “Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng”. Đây là lần đầu tiên sau khi đất nước thống nhất, vấn đề tự do sáng tác đã được Đảng đề cập.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (được Đại hội VII thông qua) lần đầu tiên đưa ra quan niệm nền văn hóa Việt Nam có đặc trưng: tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thay cho quan niệm nền văn hóa Việt Nam có nội dung xã hội chủ nghĩa, có tính chất dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân được nêu ra trước đây. Cương lĩnh chủ trương xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng. Cương lĩnh khẳng định: “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”.

Đại hội VII, VIII, IX, X, XI và nhiều nghị quyết Trung ương đã xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển. Đây có thể xem là một nhận thức mới, một tầm nhìn mới của Đảng về văn hóa phù hợp với quy luật chung phổ quát của thế giới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 14/01/1993 đã ban hành Nghị quyết “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt” với khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội”. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (tháng 7/1998) đã nêu ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo quá trình phát triển văn hóa trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đề ra những nhiệm vụ cụ thể về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam. Để ngăn chặn, phòng chống văn hóa phẩm độc hại, Ban Bí thứ đã ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27/7/2008 “Về chống sự xâm nhập của các văn hóa phẩm độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”. Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX (tháng 01/2004), Đảng xác định thêm phát triển văn hóa đồng bộ với phát triển kinh tế. Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (tháng 7/2004) đặt vấn đề bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với nhiệm vụ không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức của Đảng về vị trí của văn hóa và công tác văn hóa trong quan hệ với các mặt công tác khác.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu lên 8 phương hướng cơ bản, trong đó có việc kế thừa nội dung từ Cương lĩnh 1991 là “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI), Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 09/6/2014) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã đề ra 5 quan điểm, 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp quan trọng về xây dựng văn hóa và con người Việt Nam.

Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, cùng với đường lối, quan điểm về phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng, củng cố quốc phòng - an ninh; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng, Nhà nước Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa, con người Việt Nam. Kể từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đến Nghị quyết Trung ương IX khóa XI là chủ trương, quan điểm nhất quán có tính kế thừa, bổ sung, phát triển tư duy lý luận của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam./.

Tác giả: Trung Kiên

Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Trà Vinh

'Quy chế đào tạo tiến sĩ sẽ xóa bỏ nạn thuê viết bài báo quốc tế'

GS.TSKH Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội, trả lời VnExpress về quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ mới được công bố.

- Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ thay thế cho quy chế ban hành năm 2017. Ông đánh giá thế nào về văn bản mới này?

- Văn bản này, theo tôi, chưa phải là một quy chế mới, bởi phần nhiều vẫn giữ nội dung trong quy chế ngày 4/4/2017 cùng Thông tư 08/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhưng nó đã chỉnh sửa, bổ sung một số điểm mới quan trọng, hướng tới thực chất của hoạt động nghiên cứu trong quá trình đào tạo tiến sĩ.

Có thực tế là sau khi quy chế năm 2017 được ban hành với quy định cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh phải có công bố quốc tế nằm trong danh mục ISI/SCOPUS, hầu hết cơ sở đào tạo tiến sĩ lâm vào tình trạng khó khăn, có ngành không có nghiên cứu sinh nào ứng thí. Thoạt nhìn thì dễ đi tới nhận xét các cơ sở đào tạo của ta kém quá, không đáp ứng được trình độ quốc tế. Đưa ra quy định này để nâng chất lượng đào tạo tiến sĩ, từng bước hội nhập với thế giới.

Nhưng vấn đề không đơn giản như vậy. Có nhiều cách phân loại khoa học, để nói về tính quốc tế ở mức độ cao chỉ có một số lĩnh vực mà điển hình là Toán và sau đó là Lý, Hóa... Rất nhiều lĩnh vực khoa học còn lại mang tính khu vực. Ngay cả trong khoa học tự nhiên như Sinh, Địa, đối tượng và kết quả nghiên cứu cũng phụ thuộc vào những khu vực cụ thể.

Khoa học xã hội và nhân văn là lĩnh vực không thể thoát ly khỏi hoạt động của con người trong một không gian nhất định, phụ thuộc rất nhiều đặc điểm văn hóa, xã hội, chính trị của từng quốc gia, dân tộc mà trước hết và chủ yếu phải phục vụ đường lối, chính sách và sự phát triển của quốc gia dân tộc mình. Vì vậy, việc buộc những nhà nghiên cứu, nghiên cứu sinh trong các lĩnh vực này đưa kết quả nghiên cứu ra nước ngoài công bố cần xem xét lại.

Các công trình trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của ta chủ yếu viết về Việt Nam. Để đăng, thường phải chen vào các tạp chí viết chung về Đông Nam Á (có hơn chục nước) hoặc châu Á (có gần 60 nước) nên mỗi năm số bài về Việt Nam được chấp nhận đăng là rất ít. Mặt khác, không dễ gì các tạp chí trong danh mục ISI/SCOPUS của các nước phương Tây chấp nhận quan điểm, cách tiếp cận dựa trên học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các học giả Việt Nam, nên cửa đăng bài về Việt Nam càng hẹp hơn.

Trong tình hình như vậy, tôi đánh giá rất cao những điều chỉnh mới trong quy chế đào tạo tiến sĩ, hướng tới thực chất của hoạt động nghiên cứu khoa học. Tôi hiểu việc quy chế quy định các bài công bố tại các tạp chí trong nước theo tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng Giáo sư Nhà nước đạt từ 0,75 điểm trở lên, cho phép thay thế công bố nghiên cứu khoa học bằng những kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đã đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế quốc gia hoặc quốc tế; hoặc giải thưởng chính thức của cuộc thi quốc gia hoặc quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật và nhóm ngành thể dục, thể thao... vừa phản ánh đúng thực tế, vừa tạo động lực để các tạp chí trong nước không ngừng nâng cao chất lượng. Bộ đã đặt lòng tin vào đánh giá của các nhà khoa học trong nước, trước hết là các chuyên gia của Hội đồng Giáo sư Nhà nước.

GS Vu Minh Giang 6524 1625838632

GS Vũ Minh Giang là Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: VNU.

- Những lý do nào khiến việc điều chỉnh quy chế trở nên cấp bách, thưa ông?

- Quy chế cũ lấy tiêu chí bài báo được đăng trong hệ thống ISI/Scopus như là điều kiện tiên quyết, bắt buộc, với mong muốn nhanh chóng quốc tế hóa hoạt động đào tạo tiến sĩ của Việt Nam. Nhưng có lẽ khi đó chúng ta chưa lường tính được hết. Ở đây, tôi chỉ nói đến những lĩnh vực mà tôi có hiểu biết.

Thứ nhất, ISI/Scopus chỉ là cách phân loại, không tuyệt đối đúng với tất cả lĩnh vực khoa học. Như trên đã nói, nếu chúng ta tuyệt đối hóa, coi đây là chuẩn mực quốc tế duy nhất để đánh giá chất lượng công trình thì chẳng những mục tiêu đề ra không đạt được mà còn dẫn đến tình trạng nghiên cứu sinh tìm mọi cách "lách" để có bài đăng trên tạp chí quốc tế một cách không thực chất. Trong vài năm trở lại đây, bắt đầu xuất hiện những bài về khoa học xã hội và nhân văn của tác giả Việt Nam trên một tạp chí nằm trong danh mục ISI/SCOPUS của một số nước Đông Âu. Nói một cách thẳng thắn, những bài viết như vậy khó có thể đăng được trên tạp chí chuyên ngành ở Việt Nam.

Hiện tượng này khá phổ biến (thường thấy ở một số trường đại học nhỏ ở địa phương), tác giả tìm đến những tạp chí ISI/SCOPUS nhưng ít được biết đến, chỉ cần đáp ứng yêu cầu nộp 1.000-2.000 USD và được chấp nhận in rất nhanh. Nhiều khi tạp chí chẳng liên quan gì đến chuyên môn, chẳng hạn Nghiên cứu Lâm nghiệp (Forestry studies) nhận đăng bài về lịch sử Việt Nam. Tệ hơn là bắt đầu hình thành một số trung tâm viết bài quốc tế thuê mà thực chất là được ghép tên vào một tập thể nào đó sau khi phải trả một khoản phí.

Đấy là chưa kể những trung tâm dịch vụ đăng bài quốc tế, nếu không cẩn thận sẽ đẩy đến tình trạng thương mại hóa. Nhiều cơ sở đào tạo bỏ tiền ra thưởng cho bài quốc tế (kể cả dạng thuê viết này) khoản tiền nhiều hơn chi phí nộp cho trung tâm viết thuê, có những quỹ khoa học cấp kinh phí nhiều trăm triệu đồng chỉ cần sản phẩm có 1-2 bài báo quốc tế. Rõ ràng những sản phẩm kiểu này không thực chất, không nâng cao chất lượng nghiên cứu mà còn hao phí nguồn lực theo kiểu "gánh vàng đi đổ sông Ngô".

Thứ hai, không phải tạp chí nào cũng phù hợp với lĩnh vực chuyên môn nói chung, cũng không phải tạp chí nào cũng góp phần phát triển khoa học Việt Nam. Nếu không cẩn thận và duy ngoại thì các tác giả tìm mọi cách đưa ra nước ngoài các bài báo tốt nhất. Khi đó, các tạp chí trong nước sẽ không phát triển được. Đấy là chưa kể nếu cứ tiếp tục tình trạng này thì khoa học Việt Nam sẽ rơi vào bế tắc trong tư tưởng sùng bái nước ngoài.

Về khoa học xã hội và nhân văn, trong nước có rất nhiều tạp chí tốt đang rất cần nguồn lực (bài có chất lượng và đầu tư kinh phí) để phát triển, nhưng xu thế hướng ngoại tràn lan đã khiến việc này dần trở nên khó thực hiện.

Ở phương diện khác, chúng ta không chú ý những công bố bất lợi cho hình ảnh Việt Nam đang ngày càng gia tăng trên tạp chí ngước ngoài như vấn đề ô nhiễm môi trường, các vấn nạn xã hội, hay tiêu cực trong kinh tế - xã hội. Những bài viết rất khách quan, số liệu và phân tích rất khoa học, nhưng chúng ta thử hình dung hình ảnh Việt Nam trong mắt thế giới sẽ như thế nào khi công bố khoa học quốc tế chỉ xoay quanh những chủ đề như vậy mà hầu như rất ít nói về điểm sáng, thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị ở Việt Nam.

- Nhiều người ủng hộ việc chấp nhận các bài công bố tại tạp chí uy tín trong nước, nhưng cho rằng mỗi nghiên cứu sinh nên có tối thiểu một bài tạp chí/hội thảo quốc tế. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

- Trước hết, tôi đề nghị bỏ chữ "chấp nhận". Tư duy "chấp nhận" các bài công bố trên tạp chí trong nước thể hiện tâm lý mặc cảm tự ti, mặc nhiên coi tất cả bài được đăng trên các tạp chí trong danh mục ISI/SCOPUS là ở đẳng cấp cao hơn bài đăng trong nước. Điều này không đúng cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn nên cần căn chỉnh lại. Chúng ta phải có sự tự tin với nền khoa học của Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Hội đồng Giáo sư Nhà nước đã có quy định về tạp chí, ấn phẩm được tính điểm công trình. Theo tôi, quy định mới trong quy chế được chỉnh sửa về điều kiện của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh là phù hợp.

Sau khi quy chế này ban hành, tôi tin những hiện tượng tiêu cực như thuê viết bài, trả tiền để được đăng bài quốc tế là nỗi đau cho các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, mà nhìn xa ra là giới khoa học trong nước, sẽ biến mất. Phải loại ngay những công bố không thực chất, chấm dứt vấn nạn "gánh vàng đi đổ sông Ngô" về những bài báo công bố quốc tế không phục vụ gì nhiều cho Việt Nam, lãng phí nguồn lực quốc gia.

Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm điều chỉnh của quy chế. Định hướng này là bước đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng ta cần những quy định điều tiết sự phát triển của khoa học đất nước, trong đó có việc các tạp chí của chúng ta phải nâng cao chất lượng, đồng thời hội nhập quốc tế theo cách của mình.

 

Tin - ảnh: Linh Trang - vnexpress.net

Cách viết hoa trong văn bản quy phạm pháp luật

 

Ngày 31/12/2020, Chính phủ ban hành Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 34/2016/NĐ-CP hướng dẫn Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có quy định cách viết hoa trong văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể như sau:

I. VIẾT HOA VÌ PHÉP ĐẶT CÂU

1. Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của một câu hoàn chỉnh: sau dấu chấm câu (.); sau dấu hai chấm trong ngoặc kép (:"..."); khi xuống dòng hoặc bắt đầu đoạn.

2. Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất của khoản, điểm.

II. VIẾT HOA DANH TỪ RIÊNG CHỈ TÊN NGƯỜI

1. Danh từ riêng chỉ tên người Việt Nam:

a) Tên thông thường: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết của danh từ riêng chỉ tên người. Ví dụ: Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Giàng A Pao, Kơ Pa Kơ Long.

b) Tên hiệu, tên gọi nhân vật lịch sử: Viết hoa chữ cái đầu tất cả các âm tiết.Ví dụ: Vua Hùng, Bà Triệu, Ông GióngLý Thái Tổ, Bác Hồ, Cụ Hồ.

2. Danh từ riêng chỉ tên người nước ngoài được phiên âm chuyển sang tiếng Việt:

a) Trường hợp phiên âm sang âm Hán - Việt: Viết theo quy tắc viết tên người Việt Nam.Ví dụ: Kim Nhật Thành, Mao Trạch Đông, Thành Cát Tư Hãn.

b) Trường hợp phiên âm không sang âm Hán - Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa chữ cái đầu âm tiết thứ nhất trong mỗi thành phần.Ví dụ: Vla-đi-mia I-lích Lê-nin, Phri-đrích Ăng-ghen, Phi-đen Cat-xtơ-rô.

III. VIẾT HOA TÊN ĐỊA LÝ

1. Tên địa lý Việt Nam:

a) Tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung (tỉnh, thành phố, quận, huyện, thị xã, xã, phường, thị trấn) với tên riêng của đơn vị hành chính đó: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành tên riêng và không dùng gạch nối.

Ví dụ: thành phố Thái Nguyên, tỉnh Nam Định.

b) Trường hợp tên đơn vị hành chính được cấu tạo giữa danh từ chung kết hợp với chữ số: Viết hoa cả danh từ chung chỉ đơn vị hành chính đó.Ví dụ: Phường 15, Quận 8.

c) Trường hợp viết hoa đặc biệt: Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.

d) Tên địa lý được cấu tạo giữa danh từ chung chỉ địa hình (sông, núi, hồ, biển, cửa, bến, cầu, vũng, lạch, vàm v.v...) với danh từ riêng (có một âm tiết) trở thành tên riêng của địa danh đó: Viết hoa tất cả các chữ cái tạo nên địa danh.

Ví dụ: Cửa Lò, Vũng Tàu, Lạch Trường, Vàm Cỏ, Cầu Giấy.

Trường hợp danh từ chung chỉ địa hình đi liền với danh từ riêng: Không viết hoa danh từ chung mà chỉ viết hoa danh từ riêng.Ví dụ: biển Cửa Lò, chợ Bến Thành, sông Vàm Cỏ, vịnh Hạ Long.

đ) Tên địa lý chỉ một vùng, miền, khu vực nhất định được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với từ chỉ phương thức khác: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi. Đối với tên địa lý chỉ vùng, miền riêng được cấu tạo bằng từ chỉ phương hướng kết hợp với danh từ chỉ địa hình thì viết hoa các chữ cái đầu mỗi âm tiết.Ví dụ: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Nam Kỳ, Nam Trung Bộ.

2. Tên địa lý nước ngoài được phiên âm chuyển sang tiếng Việt:

a) Tên địa lý đã được phiên âm sang âm Hán - Việt: Viết theo quy tắc viết hoa tên địa lý Việt Nam.Ví dụ: Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, Pháp, Anh, Mỹ,

b) Tên địa lý phiên âm không sang âm Hán - Việt (phiên âm trực tiếp sát cách đọc của nguyên ngữ): Viết hoa theo quy tắc viết hoa tên người nước ngoài quy định tại điểm b khoản 2 Mục II.Ví dụ: Mát-xcơ-va, Men-bơn, Sing-ga-po

IV. VIẾT HOA TÊN CƠ QUAN, TỔ CHỨC

1. Tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam: Viết hoa chữ cái đầu của các từ, cụm từ chỉ loại hình cơ quan, tổ chức; chức năng, lĩnh vực hoạt động của cơ quan, tổ chức. Ví dụ: - Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng; Ban Nội chính Trung ương; Ban Kinh tế Trung ương,...;

2. Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài:

a) Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài đã dịch nghĩa: Viết hoa theo quy tắc viết tên cơ quan, tổ chức của Việt Nam.Ví dụ: Liên hợp quốc (UN), Tổ chức Y tế thế giới (WHO),

b) Tên cơ quan, tổ chức nước ngoài được sử dụng trong văn bản ở dạng viết tắt: Viết bằng chữ in hoa như nguyên ngữ hoặc chuyển tự La-tinh nếu nguyễn ngữ không thuộc hệ La-tinh.Ví dụ: WTO; UNDP; UNESCO; ASEAN; SNG.

V. VIẾT HOA CÁC TRƯỜNG HỢP KHÁC

1. Danh từ thuộc trường hợp đặc biệt: Nhân dân (khi sử dụng như danh từ chỉ tên riêng, thể hiện sự trang trọng), Nhà nước (chỉ tên riêng Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; khi Nhà nước sử dụng như danh từ riêng).

2. Tên các huân chương, huy chương, các danh hiệu vinh dự: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết của các thành phần tạo thành tên riêng và các từ chỉ thử, hạng.Ví dụ: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh.

3. Tên chức vụ, học vị, danh hiệu: Viết hoa tên chức vụ, học vị nếu đi liền với tên người cụ thể.Ví dụ: Chủ tịch Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ.

- Giáo sư Tiến sĩ khoa học Phạm Văn M, Giáo sư Viện sĩ Nguyễn Văn H.

4. Tên các ngày lễ, ngày kỷ niệm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết tạo thành tên gọi ngày lễ, ngày kỷ niệm. Ví dụ: ngày Quốc khánh 2-9, ngày Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày Truyền thống Văn phòng Quốc hội, ngày Quốc tế Lao động 1-5

5. Tên các loại văn bản: Viết hoa chữ cái đầu của tên loại văn bản và chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi của văn bản trong trường hợp nói đến một văn bản cụ thể. Ví dụ: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Luật An toàn vệ sinh lao động...

6. Trường hợp viện dẫn phần, chương, mục, tiểu mục, điều, khoản, điểm của một văn bản cụ thể thì viết hoa chữ cái đầu của phần, chương, mục, tiểu mục, điều.

Ví dụ: Căn cứ Điều 10 của Luật Tổ chức Quốc hội;  Căn cứ khoản 4 Điều 18 của Luật An toàn vệ sinh lao động; Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 103 Mục 5 Chương XII Phần I của Bộ luật Hình sự;  Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 24 Tiểu mục 1 Mục 1 Chương III của Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14...

7. Tên các năm âm lịch, ngày tốt, ngày và tháng trong năm:

a) Tên các năm âm lịch: Viết hoa chữ cái đầu của tất cả các âm tiết tạo thành tên gọi.Ví dụ: Kỷ Tỵ, Tân Hợi, Mậu Tuất, Mậu Thân.

b) Tên các ngày tết: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên gọi.Ví dụ: tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ, tết Trung thu.

Viết hoa chữ Tết trong trường hợp dùng để thay cho một tết cụ thể (như Tết thay cho tết Nguyên đán).

c) Tên các ngày trong tuần và tháng trong năm: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết chỉ ngày và tháng trong trường hợp không dùng chữ số: Ví dụ: thứ Hai, thứ Tư, tháng Năm, tháng Tám...

8. Tên các sự kiện lịch sử và các triều đại: Viết hoa chữ cái đầu của các âm tiết tạo thành sự kiện và tên sự kiện, trong trường hợp có các con số chỉ mốc thời gian thì ghi bằng chữ và viết hoa chữ đó. Ví dụ: Triều Lý, Triều Trần, Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, Cách mạng tháng Tám,...

9. Tên các tác phẩm, sách báo, tạp chí: Viết hoa chữ cái đầu của âm tiết thứ nhất tạo thành tên tác phẩm, sách báo. Ví dụ: từ điển Bách khoa toàn thư, tạp chí Cộng sản,...

Quy định này được áp dụng từ ngày 01/01/2021.

Tác giả: Trần Nội
Nguồn: Sở Tư Phát - Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên