THU VỀ THẮNG HỘI VU LAN.
Mến tặng Thạc sỹ Lâm Quang Vinh .
 
Thắng hội Vu lan đã từ lâu trở thành một đại lễ của Phật giáo nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung. Đây là nhịp cầu thiêng liêng nối liền giữa hai bến bờ tâm linh và đạo đức trong cuộc sống của mỗi con người. Vu lan không chỉ là dịp để con cháu tưởng nhớ đến công lao sinh thành dưỡng dục vĩ đại của ông bà cha mẹ đối với mình mà còn với cả Tổ quốc, thầy cô và cả đồng bào nhân loại. Vì lẽ đó mà mỗi cá nhân cần phải có thêm những suy nghĩ, những hành động thiết thực hơn, ý nghĩa hơn, và có thêm tình yêu bao la rộng lớn hơn với thế giới xung quanh mình. Tình yêu, lòng biết ơn và biết đền ơn đó chính là con đường đi đến hạnh phúc của cuộc sống.
dao thai son
Về hai chữ “Vu lan”, hiện nay có nhiều bạn trẻ chỉ hiểu chung chung là lễ báo hiếu, chứ chưa rõ nó muốn biểu thị điều gì. Thực ra, Vu lan hay Vu lan bồn [盂蘭 –盂蘭盆] là người Hán phiên âm một từ tiếng Phạn là [Ullambana] nghĩa là “treo ngược”, nên còn dịch thành là [Đảo huyền - 倒懸]. Giải đảo huyền [解倒懸] theo nghĩa đen là giải thoát khỏi hình phạt bị treo ngược; còn nghĩa bóng là cứu độ ra khỏi hoàn cảnh đau khổ tột cùng như bị treo ngược. Về điển tích này, người Trung Hoa xưa có câu Chuyện Mục Liên – Thanh Đề chép trong Vu lan bồn kinh, tóm tắt như sau: Mục Kiền Liên là một trong thập đại đệ tử của Đức Phật, ngài đã tu luyện thành công nhiều phép thần thông. Mẹ ông là bà Thanh Đề đã qua đời, ông tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên dùng mắt phép nhìn khắp trời đất để tìm. Thấy mẹ mình, vì gây nhiều nghiệp ác nên phải sanh làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở, ông đã đem cơm xuống tận cõi quỷ để dâng mẹ. Tuy nhiên, do đói ăn lâu ngày nên mẹ của ông khi ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành lửa đỏ. Mục Liên quay về tìm Phật để hỏi cách cứu mẹ, Phật dạy rằng: Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp oai lực của chư tăng khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày thích hợp để cung thỉnh chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó. Làm theo lời Phật, mẹ của Mục Liên đã được giải thoát.
Nhưng kỳ thực câu chuyện này hoàn toàn không thuần nhất trong kinh văn của Ấn Độ, mà kinh Vu lan là do chính các tổ của Trung Quốc phóng tác vào khoảng thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ IV, dựa trên cơ sở một số câu chuyện trong Kinh tạng Pali. Chẳng hạn, câu chuyện Mẹ của trưởng lão Sariputta (Tiểu bộ kinh II, trang 61, NXB Tôn Giáo 2017, do HT. Thích Minh Châu và GS. Trần Phương Lan dịch), cũng có nội dung khá tương tự. Hoặc gần gũi và tương đồng hơn có câu chuyện Mẹ của Uttara cũng cùng một mô típ. Xin chép nguyên văn bản dịch trong Tiểu bộ kinh II (Khuddaka Nikaya) như sau:
“Sau khi bậc Đạo Sư diệt độ, vào thời đại hội kết tập kinh điển đầu tiên đang diễn tiến, Tôn giả Mahā-Kaccayāna (Đại Ca Chiên Diên) cùng mười hai Tỳ-kheo đang cư trú trong ngôi rừng nọ gần Kosambi (Kiều-thưởng-di). Thời ấy Uttara, vị nam tử thừa kế của vị quốc sư triều vua Udena, đang cùng đám thợ mộc đi tìm gỗ để sửa nhà, và được Trưởng lão này thuyết pháp. Về sau Uttara thường cúng dường vị ấy thực phẩm và xây tặng vị ấy một thảo am. Song bà mẹ của Uttara căm hận những việc cúng dường ấy. Bà bảo: - Ta mong bất cứ thức ăn uống nào con cúng các Sa-môn mà ta không đồng ý đều trở thành máu cho con uống ở đời sau. Tuy thế, vào ngày cúng dường am thất, bà cho phép tặng một bó lông đuôi công. Khi từ trần, bà tái sanh làm nữ ngạ quỷ và do đã cúng dường một bó lông đuôi công ấy, nữ ngạ quỷ có mái tóc đen thật dài, uốn lượn óng ả rất đẹp và dài tha thướt. Bất cứ khi nào nữ ngạ quỷ bước xuống tự nhủ: ‘Ta sẽ uống nước sông Hằng thì dòng sông trở thành máu đỏ. Sau khi đã đi lang thang suốt năm mươi năm bị đói khát giày vò, ngày kia nữ ngạ quỷ chợt thấy Trưởng lão Kankhā Revata (Kankhā Ly-bà-la) ngồi nghỉ trưa bên bờ sông Hằng: Cuộc đối thoại này tiếp theo sau hai vần kệ đầu của chư vị kết tập kinh điển: 1- Khi một Tỳ-kheo đến nghỉ trưa / Và ngồi trên bến nước Hằng hà, / Gần người, nữ quỷ hình ghê rợn, / Dáng điệu rụt rè, tiến bước ra. 2- Mái tóc quỷ nương ấy thật dài / Thả ra chấm đất, được buông lơi, / Che thân bằng các chùm tóc ấy, / Nữ quỷ thưa Tôn giả chuyện đời;: Nữ ngạ quỷ: 3- Năm mươi năm đã giã từ trần, / Con chẳng biết gì thức uống ăn. / Tôn giả, cho con xin chút nước, / Hiện con đang khát nước muôn phần ; Tỳ-kheo: 4- Đây dòng nước mát của sông Hằng / Chảy xuống từ miền núi Tuyết Sơn, / Hãy lấy nước kia và uống gấp, / Sao ngươi xin nước ở trên dòng ? ; Nữ ngạ quỷ: 5- Tôn giả, xin thưa, nếu chính con / Tự tay lấy nước ở dòng sông, / Nước liền thành máu, và vì thế / Con khẩn cầu ngài chút nước trong. ; Tỳ-kheo: 6- Ngày xưa đã phạm ác hạnh nào / Do khẩu, ý, thân đã phạm vào, / Từ nghiệp quả gì tay ấy chạm / Nước sông Hằng hóa máu, vì sao? ; Nữ ngạ quỷ: 7- Nam tử của con, Ut-ta-ra, / Xưa vốn là cư sĩ tại gia / Đem cúng các Sa-môn thực phẩm, Tọa sàng, dược liệu, áo cà-sa. / 8- Lòng con sôi động bởi xan tham / Thúc giục, nên con phỉ báng chàng: / Bất cứ vật gì ta chẳng muốn / Ngươi đem dâng cúng các Sa-môn, / 9- Ut-ta-ra, thứ ấy, ta cầu / Thành máu cho ngươi ở kiếp sau. / Do nghiệp quả này, tay chạm phải / Nước sông Hằng hóa máu từ lâu.
Khi ấy Tôn giả Revata cúng dường nước lên Tăng chúng và hồi hướng công đức cho nữ ngạ quỷ. Sau đó Tôn giả đi khất thực và khi đã nhận được thức ăn Tôn giả cúng dường chư Tăng. Rồi Tôn giả lấy một ít giẻ rách từ đống rác, rửa sạch, phơi khô xong, Tôn giả may thành y và cúng dường Tăng chúng. Nhờ vậy nữ ngạ quỷ thọ hưởng thiên lạc, liền trình với vị Trưởng lão sự việc cùng bày tỏ niềm hạnh phúc thần tiên mà nó đã đạt được” (Tiểu bộ kinh II, trang 99-101, NXB Tôn Giáo 2017, do HT. Thích Minh Châu và GS. Trần Phương Lan dịch)
Trong đó, ta thấy Uttara (Ưu Đa La) được thay thành Mục Kiền Liên, còn vị tỳ kheo giảng giải được thay bằng Đức Phật. Câu chuyện được phóng tác qua Hán văn này, có lẽ phải đến đời Lương Võ Đế thì mới thực sự đi vào đời sống tín ngưỡng, sớm lắm thì cũng đến thế kỷ thứ V trở về sau thì Vu lan mới thực sự trở thành một nghi lễ long trọng tại Trung Quốc. Điều đặc biệt là nghi lễ này đề cao chữ hiếu, một phạm trù đạo đức thiết thực của nhân sinh, nên một số nước có chung truyền thống văn hóa dễ dàng tiếp nhận, trong đó có Việt Nam.
Lịch sử là vậy, biến văn là vậy. Nhưng cốt yếu của văn hóa Vu lan là giáo dục con người lòng hiếu thảo, biết đền ơn đáp nghĩa. Đó chính là cái hướng giáo dục tính thiện từ bên trong của mỗi con người, từ góc độ gia đình cho đến bên ngoài xã hội. Vì điều căn bản nhất của mỗi con người là chữ hiếu, vì bất kỳ ai cũng đều có cha mẹ sinh ra, và có hiếu thuận với ông bà cha mẹ thì mới biết thương con người, yêu thương muôn vật. Trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phật có dạy rằng: “Này các Tỳ kheo. Có hai hạng người trả ơn không thể nào được. Thế nào gọi là hai? Đó là Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng Mẹ, một bên vai cõng Cha, làm như thế suốt trăm năm cho đến một trăm tuổi, người con cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cho Cha Mẹ”. Cha mẹ là người chịu nhiều đau khổ và vất vả để sinh ta ra, nuôi nấng dạy dỗ ta nên người, đó là một quá trình dài dằng dặc, chứ không phải sớm tối một chiều. Và trên đời này không ai hi sinh cho con cái hơn cha mẹ, công lao trời biển ấy đâu có thể cân đo đong đếm được. Phận làm con nếu không thấy rõ điều này coi như một sai lầm lớn nhất của kiếp làm người. Biết hiếu, nói hiếu không chỉ bằng cái miệng, mà là ở chỗ tư tưởng và hành vi. Nuôi dưỡng cha mẹ mà không thờ kính cha mẹ thì có khác gì nuôi con vật! Đó là chữ hiếu méo mó, tật nguyền không sử dụng được. Làm người phải “một lòng thờ mẹ kính cha” phải “cho tròn chữ hiếu” mới làm con trọn đạo. Nhưng thế nào là cho tròn chữ hiếu? Đó là khi cha mẹ còn sống phải biết vâng lời dạy bảo, làm cha mẹ vui lòng, thờ kính cha mẹ. Khi cha mẹ già phải nuôi dưỡng chăm sóc. Khi cha mẹ qua đời thì ma chay tế lễ cho đàng hoàng tử tế. Nhưng ở khía cạnh này có rất nhiều người ngộ nhận. Ma chay tế lễ đàng hoàng không có nghĩa là giết gà giết lợn thiết đãi linh đình. Đó chẳng qua là làm cho tội nghiệp của người đã khuất càng thêm nặng nề mà thôi. Chúng ta phải hiểu rằng, lúc cha mẹ còn sống vì trăm kế mưu sinh, vì nuôi nấng con cái mà vướng vào không ít nghiệp báo, tại sao cha mẹ mất rồi mà ta còn làm cho cha mẹ phải mang thêm phần nặng đó! Chính vì vậy, hiếu thuận với cha mẹ là mong cầu, tạo nhiều phước báo cho cha mẹ được siêu sinh tịnh độ, là thoát ra khỏi luân hồi sanh tử, chứ không phải kéo cha mẹ vào địa ngục A Tì để chịu trầm luân đau khổ.
Từ trọng ân của cha mẹ, ta nghĩ đến trọng ân của các bậc thầy cô. Vì mỗi con người sinh ra để phát triển toàn diện phải được nuôi dưỡng bằng cả lúa gạo lẫn tri thức. Mà tri thức ta có được là do công lao của thầy cô dạy dỗ. Đó là nền tảng cơ sở để con người trưởng thành, có nhân cách, phát triển nghề nghiệp, thích ứng, dung hòa với cuộc sống, với cộng đồng xã hội. Chính vì vậy làm người không thể không biết ơn và trả ơn này. Đối với giới Phật tử, cần phải biết Ân Tam Bảo ( Phật - Pháp - Tăng). Ơn của Đức Phật với chúng sinh quả là vô cùng vĩ đại. Vì ngài đã dám bỏ tất cả hạnh phúc riêng tư, hi sinh cuộc đời mình để tầm đạo, giác ngộ ra chân lý cứu độ chúng sinh khỏi mọi nỗi khổ niềm đau. Và chân lý ấy chính là pháp của ngài để lại cho nhân loại sau này. Khi Đức Phật nhập niết bàn thì Pháp chính là thầy, nhờ có pháp mà chúng sinh mới biết phân biệt đâu là tội ác, biết đường tìm về với chính mình, biết hướng giải thoát ra khỏi luân hồi sanh tử để đi đến hạnh phúc viên mãn của vũ trụ hòa đồng. Để làm được điều đó thì phải có Tăng. Tăng là những bậc chân tu phẩm hạnh, là người môi giới giữa pháp của Phật đến với chúng sinh để gieo hạt giống an lành. Tăng cũng là người truyền huyết thống tâm linh cho mỗi chúng ta. Đó cũng là cái thế giới thiện giúp ta biết chế ngự mọi cái xấu ác để mà sống tốt… Chính vì vậy chúng ta không thể không hiểu biết về trọng ân này.
Nhưng để thực hiện được hai trọng ân trên, chúng ta không thể quên trọng ân của quốc gia xã hội. Chỉ có một đất nước thanh bình, ổn định thì mọi thành phần trong xã hội mới có cơ hội sinh hoạt yên lành và phát triển, nhân dân bá tánh mới có cơm no áo ấm, mới được học hành và an cư lạc nghiệp. Chiến tranh chỉ đem lại sự giết chóc, tàn phá, sự đau khổ và di chứng của sự đau khổ triền miên. Để có được một đất nước yên ổn, phát triển như hiện nay đã phải trải qua mấy ngàn năm xương rơi máu đổ. Biết bao bậc minh quân, anh hùng tướng sỹ, những người mở cõi khai hoang, những nhà chính trị vì dân vì nước, những chiến sỹ âm thầm nơi biển đảo xa khơi…, tất cả sự là sự hi sinh không hề nhỏ, tất cả phải đổi bằng máu và nước mắt. Chính vì vậy mà có thể nói đây là một trọng ân trong những trọng ân, chúng ta không thể không báo đền.
Ngoài trọng ân với cha mẹ, thầy cô và Tổ quốc, còn một trọng ân khác là với đồng bào nhân loại. Vì mỗi con người chúng ta không thể sống độc lập, tự cấp tự túc mọi thứ cho mình, mà phải sống trong mối tổng hòa của tất cả các mối quan hệ xã hội. Vạn loại chúng sinh luôn phải tương hỗ cho nhau từ manh áo, chén cơm, viên thuốc đến tất cả các phương tiện sinh hoạt khác hằng ngày. Có thể nói muôn loài muôn vật là một chuỗi móc xích với nhau, muốn duy trì thì phải kết nối, bởi vậy cái ơn của tha nhân, tha vật là chúng ta phải thọ nhận luôn luôn trong mỗi phút mỗi giây của cuộc sống. Biết cái ơn này chúng ta mới phát tâm với tình yêu rộng lớn, mới bỏ qua sự ích kỷ hẹp hòi, mới không tàn hại nhau một cách vô tội vạ, mới thấu hiểu thế nào là “nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Vì bản chất của vũ trụ là hòa đồng, còn người còn chấp ngã mới chấp mê, một khi đã hiểu ta chẳng phải là ta, mà ta cũng chẳng là ai cả thì mới đích thực hạnh ngộ pháp thân, mới thực sự hạnh phúc trọn vẹn.
Có thể khẳng định một điều rằng, tứ trọng ân là bốn trụ cột cơ bản nhất của xã hội học Phật giáo. Mà Vu lan là một nghi lễ cơ sở để mọi người nhìn thấy được vấn đề một cách thấu đáo thông qua những bậc hiền trí. Từ việc hiểu thế nào là ân, rồi đi đến việc đền ân đáp nghĩa cho phải lẽ là một quá trình mà con người phải hết sức tinh tấn huân tập, chứ không phải là một ý nghĩ thoáng qua hay một lời nói suông. Biết ơn, trả ơn là nền tảng căn bản nhất của đạo đức làm người. Vì con người ứng xử với nhau là nhân văn nhân bản, nhưng ứng xử với muôn loài muôn vật phải với tư cách là nhân loại trung tâm. Ngày nay Vu lan đã trở thành một lễ hội mang tầm tinh hoa của nhiều dân tộc Á Đông, phải làm thế nào để nó trở thành một nếp nghĩ, một nếp sinh hoạt mang ý nghĩa thiêng liêng thường nhật, ăn sâu vào tâm khảm của mỗi con người thì mới thực sự có cuộc sống an lành tốt đẹp. Bằng ngược lại rơi vào các trò cúng bái giải oan, giải nghiệp, những trò mê tín dị đoan, hoặc hiếu đễ hình thức thì vô vàn tai hại. Một xã hội văn minh không thể chấp nhận những sai lầm lệch lạc đó, cũng như một con người đối với mình mà còn giả dối thì hỏi làm sao chân thật với người khác được.
Tác giả: NNC. Đào Thái Sơn