Trao nghị quyết bổ nhiệm chức danh Hiệu trưởng Trường Đại học Trà Vinh, nhiệm kỳ 2021 - 2025

Trao quyền bổ nhiệm chức vụ Hiệu trưởng Trường Đại học Trà Vinh, nhiệm kỳ 2021-2025  Chiều ngày 20/5, tại Trường Đại học Trà Vinh (ĐHTV), quyền ủy quyền của Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Trường ĐHTV tổ chức lễ công bố và trao quyền bổ nhiệm chức danh Hiệu trưởng; các công nhận chức danh Phó Giáo sư. Đến dự, có ông Ngô Trường Giang, Phó Giám đốc Sở Nội vụ tỉnh Trà Vinh; ông Trần Hoàn Kim, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Trường; PGS.TS Phạm Tiết Khánh, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐHTV, đại diện lãnh đạo các...

21-05-2022

Phúc Kiến (Phúc Kiến) Người th…

Atsuko Tshuchiya - Kobe University, Japan Bài báo này đã được trình bày tại Hội thảo Quốc tế, ngày 27-28 tháng 8 năm 2015 tại Trường Đại học Trà Vinh, Việt Nam. 1   ...

18-03-2021

Error: No articles to display

Error: No articles to display

VĂN NGHỆ DÂN GIAN HÁT BỘI

Hát bội còn gọi là “hát bộ” tức là nói, hát và hét bằng cả động tác ra bộ. Môn nghệ thuật này có từ rất lâu, thịnh hành nhất vào triều Nguyễn. Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước đã cho khôi phục thực hiện nghi lễ tế đàn Xã Tắc tại kinh thành Huế và các đình làng khắp trong nước gắn liền với nghệ thuật hát bội mà nội dung chính là “tôn Vương” – diễn lại những tuồng cổ mang ý nghĩa phục nghiệp vương triều, lập lại ngôi vua sau những năm dài loạn lạc, bôn tẩu… Hát bội là một trong những nghi thức cổ truyền không thể thiếu trong các dịp lễ tiết của đình thần vùng sông nước Tây Nam Bộ. Nghi thức này cở Tây Nam Bộ mang sắc thái riêng của cư dân vùng đất mới và bao giờ cũng gắn liền với lễ Kỳ yên (cúng đình) theo mùa nông vụ.

0001

Hát bội tại các lễ hội

Theo thông lệ, lễ cúng đình ở Tây Nam Bộ diễn ra mỗi năm hai lần, trong đó lễ chính từ tháng 3 đến tháng 5 (âm lịch), lễ phụ diễn ra tháng 11 (âm lịch), trong đó lễ chính phải có hát bội.  Toàn vùng có trên 10 đoàn nghệ thuật hát bội, nghệ sĩ sinh hoạt theo mùa cúng đình. Do thời gian lễ cúng không tập trung mà kéo dài trên hai tháng nên vẫn đảm bảo cho hoạt động văn hóa này có thể diễn ra ở tất cả các đình thần. Nhờ vậy, nghề hát bội tuy trải qua khá nhiều giai đoạn thăng trầm nhưng vẫn sống mãi đến ngày nay.

Năm 2009, tôi có dịp tiếp xúc với nghệ nhân Hà Quang Ấn, lúc đó 78 tuổi đời và 58 tuổi nghề và đang làm chủ gánh hát bội “Đoàn nghệ thuật tuồng cổ Bạc Liêu”. Qua ông, tôi mới hiểu được đầy đủ về loại hình nghệ thuật này:

Hát bội ngày xưa không có trường lớp đào tạo như bây giờ mà chủ yếu là học hỏi từ lớp đàn anh, đàn chị, người đi trước. “Ông Nhưn” (thầy tuồng, đạo diễn) có nhiệm vụ chỉ dẫn đào kép: từ phát âm cho đến các động tác ra điệu, bộ, biểu cảm hỉ. Nghệ sĩ phải thuộc lòng các lời thoại được sáng tác bằng nhiều thể loại thơ tứ tuyệt, ngũ ngôn, lục bát, song bát, song thất lục bát, có nội dung đề cao luân thường đạo lý:  với vua thì “Quân thần tận kỳ trung”, còn đối với cha thì “Phụ tử đắt kỳ hiếu”, với bạn bè thì “ Bằng hữu chí kỳ tín”, an hem thì “ Huynh đề toàn kỳ trung” … Bên cạnh đó còn phải học cơ bản một số bài võ: đường thảo, đường roi, múa đao, kiếm… phải am hiểu những điều cấm kỵ trong biểu cảm để không hát cương, giễu cợt tùy tiện trên sân khấu, vừa đảm bảo tính nghệ thuật cao vừa giữ được màu sắc tín ngưỡng dân gian trong các nghi thức cúng đình.

Trong nghi thức hát bội ở đình, đầu tiên, trước khi xây chầu (thường là khoảng 8 giờ tối) toàn thể diễn viên phải mặc đúng sắc phục của vai diễn, tập trung lại làm lễ bái kiến Thần, sau đó lần lượt thay nhau thực hiện 6 lễ múa để xây chầu, đó là:

Lễ khai nhật nguyệt (tượng trưng cho ngày khai thiên, lập địa): Diễn viên thực hiện là đôi nam nữ, từ 50 tuổi trở lên, chững chạc.

Lễ Điềm hương, Điềm hoa: tượng trưng cho sự xuất hiện của loài người, do một đôi nam nữ diễn viên trẻ thực hiện.

Lễ Tam Tài, biểu trưng cho may mắn, điềm lành đến với mọi người. Lễ này được thực hiện bởi 3 người nam, trong vai 3 vị thần linh: Phúc, Lộc, Thọ.

Lễ Tứ tướng Thiên vương (4 tướng giữ 4 cửa trời: Đông, Tây, Nam, Bắc) gồm các vai diễn: Ma Đại Thanh, Ma Đại Hồng, Ma Đại Hải, Ma Đại Thọ do 4 diễn viên đảm trách.

Lễ Đại Bội: tượng trưng cho mối quan hệ giao hòa hữu nghị giữa láng giềng ( nước lân bang), do 1 diễn viên nam cao tuổi và 4 diễn viên nữ trẻ đẹp đảm trách.

Lễ gia quan tấn tước  chủ yếu có ý nghĩa chúc tụng, do một diễn viên nam đảm trách. Trang phục gần giống như Thổ Địa, đội mũ cánh chuồn.

Tuy là 6 lễ nhưng thời gian thực hiện mỗi lễ  chỉ khoảng 5 – 7 phút, nên tổng khóa lễ không dài quá một giờ. Đặc điểm nỗi bật ở nghi thức này là nơi chính điện đình thần phải thắp đèn cầy, duy trì nhan khói liên tục và có ít nhất 12 cậu học trò lễ thay phiên nhau, đứng cúng bái theo nhịp trống cho đến kết thúc lễ … Đây là nghi lễ khai chầu trọng thể mà các diễn viên đoàn hát bội mới thực hiện được thành thục, không ai có thể thay thế.

Sau lễ xây chầu, suất hát đầu tiên mà đoàn hát bội phải hát trong đêm là những tiết mục tuồng mang ý nghĩa dựng nước, lập lại ngai vua, chiêu hiền đãi sĩ như: “San Hậu”, “Thần nữ Dâng Ngũ Linh Kỳ” còn xuất hát cuối (ngày thứ ba) thì diễn tuồng “Sơn Hà Xã Tắc” nhằm tôn Vương. Đây là màn tuồng chủ lực mà đoàn hát bội nào cũng phải hát để tưởng nhớ công lao của triều Nguyễn đã mở mang bờ cõi và thiết lập triều vua dòng họ Nguyễn…

Đặc điểm của nghệ thuật hát bội là người hát phải phối hợp ăn ý với người cầm chầu (đánh trống chầu). Người biết thưởng thức bộ môn nghệ thuật này, chỉ cần nghe qua tiếng trống chầu thôi cũng biết được trình độ đào kép của đoàn hát; tình tiết  vui buồn, lâm ly, gay cấn đều thể hiện qua người cầm chầu.

Người cầm chầu xưa là ông Hương Cả, nay là người trong ban tế tự được cử ra, có vai trò như Chánh chủ khảo. Nếu diễn viên hát đúng (tốt) sau mỗi câu hát người cầm chầu sẽ tán thưởng từ 2 đến 3 tiếng trống: “Thùng! Thùng!”, “Thùng! Thùng! Thùng!” và ngược lại, nếu hát sai, hát dối nhận lớp thì người cầm chầu sẽ đánh vào thành trống “cắc! cắc” rất mạnh, thể hiện sự tức giận.

Dưới triều Nguyễn, nghệ thuật hát bội được nhà nước phong kiến phát huy rực rỡ, quần chúng mến mộ nhiệt tình, sự lôi cuốn mãnh liệt của loại hình nghệ thuật này được thể hiện qua nhiều câu thơ ca dân gian như:

“Hát bội hành tội người ta

Đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ con”  

Hay

“Trồng trầu trộng lộn dây tiêu

Con mê hát bội, mẹ liều con hư”

Thập niên 60 – 70 của thế kỷ trước (1960-1975) là thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật cải lương Nam Bộ. Nhưng do chiến tranh, bất ổn an ninh trật tự tại các vùng nông thôn, nhiều đình làng bị tàn phá, xuống cấp, khiến lễ hội cúng đình và nghệ thuật hát bội bị mai một dần. Tình trang này kéo dài nhiều năm sau hòa bình thống nhất đất nước. Mãi đến sau đởi mới (từ 1990) do nhu cầu tín ngưỡng tâm linh truyền thống, đình được tu sửa, xây mới… lễ Kỳ yên hằng năm được tổ chức trọng thể ở mỗi đình. Nghệ thuật hát bội cũng dần sống dậy. Nhà hát nghệ thuật hát bội Thành phố Hồ Chí Minh tại Thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở giảng dạy, đào tạo diễn viên chuyên nghiệp cho loại hình nghệ thuật này… Dù vậy số lượng đoàn nghệ thuật hát bội ở Tây Nam Bộ hiện nay không đáp ứng đủ nhu cầu các lễ hội (ngoài lễ cúng đình, còn trên 30 lễ hội dân gian khác tại vùng sông nước) đặc biệt là vào mùa cao điểm của lễ hội.

Mặc dù không thịnh hành như nhiều loại hình văn hóa giải trí khác nhưng nghệ thuật hát bội là nhu cầu không thể thiếu trong tín ngưỡng tâm linh cúng đình và ở các lễ hội văn hóa cổ truyền… Nhờ vậy, nghệ thuật hát bội không ngừng được phục hồi mà còn trở thành di sản văn hóa vật thể của dân tộc. Sự tồn tại của nghệ thuật hát bội được minh chứng rất cụ thể với 15 đoàn nghệ thuật ở 13 tỉnh, thành phố Tây Nam Bộ, trong đó có một số tihr như An Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng … có từ 2 đến 3 đoàn, chủ yếu để phục vụ các lễ hội tín ngưỡng dân gian Nam Bộ.

Tác giả: Đoàn Nô

Trích: Văn hóa dân gian châu thổ Cửu Long, Đoàn Nô, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội 2020, tr222-227.